Monday, September 28, 2009

Bão Ketsana đe dọa miền Trung Việt Nam




medium_VN-Bao-2709.jpg

Cơn bão Ketsana khi tràn qua Philippine đã làm ít nhất 52 người chết và cảnh ngập lụt khắp nơi trong đó có thủ đô Maniala. (Hình: TED ALJIBE/AFP/Getty Images)

20 người chết và mất tích vì mưa lũ

VIỆT NAM (NV) - Cơn bão có tên Ketsana dù chưa chính thức đánh vào miền Trung Việt Nam nhưng những trận mưa lũ lớn từ Quảng Ninh đến Ðà Nẵng trong mấy ngày qua làm 20 người chết và mất tích.

Tin từ các báo Việt Nam cho hay cơn bão Ketsana (Việt Nam gọi là bão số 9) hiện cách quần đảo Hoàng Sa 470 cây số về phía Ðông Ðông Nam, sức gió mạnh cấp 10 (tức 89-102 km một giờ).

Bão Ketsana đang mạnh thêm và dự đoán vào sáng 29 Tháng Chín (giờ Việt Nam) bão sẽ tăng lên cấp 13 (tức 118-149 km một giờ) và sẽ áp sát bờ biển Quảng Trị-Ðà Nẵng.

Trước khi áp sát bờ biển duyên hải miền Trung Việt Nam, hôm 27 Tháng Chín, cơn bão này đã tràn qua Philippine làm thiệt mạng ít nhất 52 người.

Bản tin của VNExpress trích dẫn nguồn tin của “Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung Ương Việt Nam” cho hay, “đợt mưa lũ ở miền Trung vừa qua đã làm 17 người chết và 3 người mất tích. Trong đó, Quảng Ninh có 3 người tử vong trên tàu bị chìm ở hòn Hoa Cương thuộc vịnh Hạ Long, Thanh Hóa có 4 người, Nghệ An 6 người, Hà Tĩnh 2 người, Quảng Bình, Quảng Trị mỗi tỉnh có 1 người thiệt mạng.”

Bản tin viết tiếp, “Mưa lũ khiến gần 10,000 nhà bị ngập, tốc mái, hư hỏng; 2,500 ha lúa; gần 6,000 ha hoa màu và 1,750 ha ao nuôi thủy sản bị ngập. Thiệt hại nặng nhất là Thanh Hóa với 5,500 ngôi nhà, 1,700 hoa lúa; Quảng Bình gần 4,000 nhà, 150 ha lúa...”

Bản tin cũng nói có 23 tàu bị hỏng và chìm, riêng Nghệ An đã có 17 tàu, Thanh Hóa 3 tàu, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Quảng Bình mỗi tỉnh có một tàu chìm do lốc xoáy.

Theo dự đoán của Cục khí Tượng Thủy Văn Việt Nam, trong ngày 28 Tháng Chín, các tỉnh từ Nghệ An đến Quảng Ngãi có mưa to, nguy cơ lũ quét và sạt lở đất ở vùng núi, ngập úng ở vùng trũng có thể xảy ra.

Tin của báo Tuổi Trẻ cho biết, khu vực sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất khi bão Ketsana đánh vào là từ Quảng Trị đến Ðà Nẵng. Hiện nay tại vùng biển Ðà Nẵng sóng đã mạnh lên rất nhiều và có khả năng hàng ngàn người sẽ phải di tản.

Báo Tuổi Trẻ dẫn lời ông Huỳnh Vạn Thắng - Trưởng ban Phòng Chống Lụt Bão Ðà Nẵng - cho biết nếu di dời dân tránh bão thì Ðà Nẵng sẽ có 25,000 hộ với hơn 100,000 người dân phải sơ tán.

Các cơ quan chức năng Việt Nam cũng cho hay vùng biển từ Quảng Ninh đến Phú Yên đã có gần 22,000 tàu với gần 95,000 người làm việc trên biển được thông báo, hướng dẫn để vào nơi neo đậu và di chuyển phòng, tránh bão. (K.N)

Tu viện Bát Nhã bị CA tấn công trở thành bạo động: ‘Máu đã chảy ở Bát Nhã’

medium_BatNha-01.jpg




medium_DPT.JPG


Tượng đài Mẹ tại công trường Bông Hồng Cài Áo (tu viện Bát Nhã, Lâm Ðồng) trước và sau khi bị đập phá trong vụ bạo động hồi cuối Tháng Sáu, 2009. (Hình: theo phapnanbatnha.net)

LÂM ÐỒNG (NV) - “Xin giúp 400 tu sĩ, máu đã chảy ở Bát Nhã. Mưa, nước mắt, máu đang chảy tại Bảo Lộc, họ chận con đường độc đạo vào tu viện, công an và tất cả các cấp chính quyền đều ra mặt.”

Ðó là một trong những lời kêu gọi của các tăng sinh ở tu viện Bát Nhã vào lúc 5 giờ 29 phút chiều 27 Tháng Chín (giờ Việt Nam), khi trước đó vào buổi sáng, hàng trăm công an và côn đồ mở cuộc tấn công nhằm trục xuất 400 tăng sinh, giáo thọ theo hệ phái Làng Mai, tức đệ tử Thiền Sư Nhất Hạnh tu học. Bạo lực đã không ngừng gia tăng khi nhiều tăng ni bị đánh đập.

Sáng ngày 27 Tháng Chín (theo giờ Việt Nam), một bản tin khẩn cấp phổ biến trên trang mạng Phù Sa (www.phusa.info) cho hay tu viện Bát Nhã ở xã Dambri (thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Ðồng) bị công an tấn công.

Trang mạng Phù Sa được đặt tại Pháp, là nơi thường đăng tải nhiều tin tức nhanh chóng và chính xác về vụ tu viện Bát Nhã.

Bản tin khẩn cấp của “Phù Sa” viết, “Bây giờ là 11 giờ 06 phút sáng ngày 27 Tháng Chín (giờ VN), tức 9 giờ 6 phút tối 26 Tháng Chín (giờ California, Hoa Kỳ) trời Bát Nhã đang mưa. Quý thầy phải ngồi dưới mưa lạnh. Công an đang gọi xe tới chở đi. Các ngõ vào tu viện đều đã bị chận, Phật tử tới cứu nhưng bị chận lại từ xa.”

Bản tin viết tiếp, “Họ (tức công an) bắt tất cả quý thầy phải mang ba lô hành lý, chờ xe tới chở đi. Nhưng không biết đi đâu. Lực lượng tấn công Bát Nhã ra kỳ hạn cho Tăng thân là trong vòng 2 ngày phải rời khỏi tu viện.”

Tiếp theo đó, trang mạng Phù Sa liên tục cập nhật vụ tấn công và đàn áp cho thấy mức độ ngày càng gia tăng, trong đó có nhiều tăng sinh bị đánh đập và hành hạ dã man.

Trả lời phỏng vấn của báo Người Việt, một tăng thân xin giấu tên, 22 tuổi, tu học tại Bát Nhã, tường thuật, “Lực lượng tấn công Bát Nhã rất đông, con số lên tới 300 người; và đặc biệt số vị cư sĩ nam, đi cùng lực lượng an ninh mặc thường phục đeo khẩu trang khoảng 100 người, đã tiến vào tu viện đập phá và đạp đánh anh em chúng tôi tu tập tại Bát Nhã.'

Vị tăng thân này nói thêm với báo Người Việt: “Bên cạnh những người an ninh mặc thường phục đạp phá chúng tôi, những vị đệ tử tu tại gia của Thầy Ðức Nghi là những người đánh chúng tôi hung hăng nhất. Họ đi cạy cửa từng phòng rồi đuổi các thầy, các sư chú ra ngoài giữa lúc trời mưa rất lớn.”

Nhật báo Người Việt liên lạc nhiềulầnvới Sư Cô Chân Không, đại đệ tử Thiền Sư Nhất Hạnh, về việc tu viện Bát Nhã bị tấn công. Một lần, Sư Cô ChânKhông không tiện trả lời và hẹn giờ gọi lại. Những lần sau,điệnthoại của Sư Cô không có ngườinhấc máy.

Trong khi đó, theo tường thuật của trang mạng Phù Sa, “Họ đang đàn áp các thầy cô thậm tệ, bao thủ đoạn cũng không từ. Xin khắp nơi giúp đỡ, họ nói ngoan cố thì sẽ giết luôn. Côn đồ vào đông quá, công an trải khắp tu viện, không có một cánh cửa nào mà không bị đập phá.”

“Họ lùa các sư cô ở Mây Ðầu Núi đi về phía vườn rau, một số các sư cô bị té ở bậc tam cấp, và bị họ lấy dù đập rất là dã man. Các thầy bị đánh rất nặng, và đã bị xúc lên xe.”

Một sư cô cho biết, “Hiện có khoảng 50 thầy tì kheo và sư chú đang chịu đói và lạnh ở ngoài đường trước cổng Mây Ðầu Núi. Một em tập sự xuất gia bị đánh chảy máu miệng. Một sư chú bị bóp cổ quăng lên xe. Còn khoảng 30 thầy đang bị kẹt trong tu viện. Các thầy bị đẩy lên xe, và bị đánh quá chừng, và họ đã chở ra tới cổng ngoài của xóm Mây Ðầu Núi. Các thầy đang nằm ở ngoài đường nên họ chưa chở đi được.”

“Hai Sư anh lớn của Tăng thân là hai thầy Pháp Hội và Pháp Tụ bị lôi ra ngoài, họ lôi đi như lôi một con vật. Thầy Pháp Hội và Pháp Sỹ được ra, mỗi thầy có 4 công an áp tải về địa phương.”

Vẫn theo trang mạng Phù Sa, nhiều phật tử đã liên lạc với ông Hiệp phó giám đốc công an tỉnh Lâm Ðồng nhờ can thiệp việc bạo động này ông Hiệp trả lời, “Ðây là việc nội bộ Phật Giáo chúng tôi không can thiệp” (?!)rồi ông cúp máy.

“Hàng trăm Phật tử Ðà Lạt và các huyện lân cận đang có mặt tại Bảo Lộc và vô cùng bức xúc trước sự tàn bạo của chính quyền địa phươngà bà con nhận định lời thầy Ðức Nghi nói là sự thật: Phải có sự chỉ đạo của trung ương mà người đứng đầu là là ông Tướng Trần Tư, Bộ Công An chỉ đạo thì chính quyền địa phương mới làm ngơ như thế này. Trong khi đó toàn bộ các số điện thoại của các thành viên trong Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh Lâm Ðồng điều không liên lạc được” - Trang mạng Phù Sa cho biết.

Trước khi bị tấn công chính thức, “Lúc 8:30 tối, 23 Tháng Chín, rất đông công an đến tu viện Bát Nhã, Lâm Ðồng, “vào tăng xá ép quý thầy phải đưa giấy chứng minh nhân dân gốc cho họ. Và tìm cách đẩy quý thầy từ trên lầu tăng xá xuống hết sân phía trước. Phía tăng sinh chỉ chấp nhận đưa bản sao Chứng Minh Nhân Dân, và sau đó công an rút lui.”

Việc tấn công tu viện Bát Nhã đã được chuẩn bị trong một thời gian rất dài và đây không phải là lần đầu tiên tu viện Bát Nhã bị quấy phá, nhưng lần này cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam muốn hành động triệt để nhằm trục xuất tất cả các tăng sinh ra khỏi Bát Nhã.

Hồi cuối Tháng Sáu, 2009, tu viện Bát Nhã, rơi vào hỗn loạn, khi, gần 200 người kéo vào đập phá và đòi đuổi các tăng sĩ ra khỏi Tu Viện. Ðêm Thứ Bảy, 27 Tháng Sáu, kéo dài cho đến khuya 28, rạng sáng 29, khoảng 200 người mà, theo các nhân chứng, là “thanh niên xã hội đen” kéo vào tấn công tu viện, đập phá bếp ăn, quăng đồ đạc của giới tu sĩ, và yêu cầu gần 400 tăng sinh, giáo thọ tại đây phải rời tu viện.

Những người tu tập, là môn đồ của Thiền Sư Nhất Hạnh, từ chối lời yêu cầu. Họ tiếp tục trụ lại nơi vốn là “gốc” mà họ xuất gia, bất chấp tình trạng điện, nước bị cắt, thức ăn không được tiếp tế, và hoàn cảnh thì rơi vào tình trạng mà nhiều người gọi là “tuyệt lộ.”

Tình thế giằng co kéo dài cho đến ngày 13 Tháng Tám, khi truyền thông quốc tế đưa tin, lần đầu tiên phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao CSVN nói rằng: môn đồ của Thiền Sư Nhất Hạnh chỉ được phép ở lại tu viện Bát Nhã đến ngày 2 Tháng Chín, 2009.

Tuy nhiên, 25 ngày sau thì nhà cầm quyền Việt Nam mới chính thức ra tay trục xuất.

Hồi đầu Tháng Chín vừa qua, trong loạt bài 3 kỳ “Tôn giáo Bát Nhã, chính trị nhà nước”, khi trả lời phỏng vấn của Người Việt, Sư Cô Chân Không, đại đệ tử Thiền Sư Nhất Hạnh, cho biết quan điểm của Làng Mai liên quan đến các diễn tiến tại Bát Nhã hiện nay rằng, “Chỉ có một khí giới là tình thương. Muốn thương phải hiểu. Phải hiểu người ta có những cái ‘kẹt’ của họ. Ðôi khi trong bụng họ thương mình nhưng họ kẹt nên không dám làm. Các tăng ni hiểu thế kẹt của thầy Ðức Nghi, hiểu thế kẹt của nhóm nhà nước nên không trách giận ai hết, chỉ có thương thôi.” (KN)

Miến Điện: 2 năm sau cuộc Cách mạng Tăng bào

Cách nay đúng hai năm, chính quyền quân nhân Miến Điện đã ra lệnh cho binh lính đàn áp những cuộc biểu tình đòi dân chủ do các nhà sư Phật giáo dẫn đầu. Trong lúc gần tới ngày kỷ niệm này, các lực lượng an ninh ở Rangoon, thành phố lớn nhất Miến Điện, đã được đặt trong tình trạng báo động cao để ngăn ngừa sự tái diễn của cuộc nổi dậy thường được gọi là Cuộc Cách Mạng Tăng Bào (The Saffron Revolution). Trong khi đó, các lực lượng dân chủ Miến Điện cũng ra sức làm cho người dân đừng quên những gì đã xảy ra hai năm trước. Mời quí vị theo dõi thêm một số chi tiết dựa theo tường thuật của thông tín viên đài VOA Than Lwin Htun.

Buddhist monks march down a street for a second day as they launch a peaceful protest movement in Rangoon, Burma, 19 Sep 2007
Biểu tình đòi dân chủ do các nhà sư Phật giáo dẫn đầu tại Rangoon, Miến Ðiện năm 2007
Tin tức từ Rangoon cho biết các biện pháp an ninh nghiêm nhặt đang được áp dụng tại thành phố lớn nhất Miến Điện này và tình hình ở đây hiện nay khá yên tĩnh, khác hẳn với cảnh tượng của hai năm trước, là lúc mà hàng trăm ngàn người đã rủ nhau xuống đường để đòi chấm dứt sự cai trị của tập đoàn tướng lãnh.

Dẫn đầu những cuộc biểu tình rầm rộ khi đó là các nhà sư với những lời cầu kinh. Một nhà sư đã dùng loa phóng thanh kêu gọi mọi người xếp hàng để vừa đi vừa tụng kinh cầu nguyện.

Những cuộc biểu tình năm 2007, bùng ra vào trung tuần tháng 8 để chống đối quyết định tăng giá nhiên liệu của chính phủ, đã lên tới cao điểm vào hạ tuần tháng 9 và lúc đó mọi người bắt đầu hy vọng là Miến Điện sẽ tìm được một phương cách ôn hòa để tiến tới dân chủ.

Tuy nhiên, hy vọng đó đã bị tan vỡ vào ngày 26 tháng 9, khi chính quyền quân nhân ra lệnh cho binh sĩ của họ sử dụng mọi sức mạnh mà họ có được để dẹp tan cuộc biểu tình.

Bên cạnh những người lính nổ súng bừa bãi vào đoàn người biểu tình, những dân quân thân chính phủ, có tên Swan Ar Shin, cũng dùng gậy gộc để tấn công người dân và các nhà sư một cách thô bạo.

Những hình ảnh thô bạo đó đã được chiếu trên những màn ảnh truyền hình và máy tính trên khắp thế giới, kể cả cảnh tượng một ký giả Nhật bản bị lính Miến Điện bắn chết trên đường phố.

Chính phủ Miến Điện nói rằng có 37 người thiệt mạng trong các cuộc biểu tình, nhưng những nhân vật lãnh đạo phe đối lập nói rằng số người chết cao hơn rất nhiều. Một số tăng ni bị bắt năm 2007 cho đến nay vẫn còn bị giam cầm.

Trong những ngày vừa qua, với mục đích không để cho tái diễn những cuộc biểu tình của hai năm trước, chính phủ Miến Điện đã bố trí các lực lượng an ninh xung quanh các tu viện trên khắp nước, kể cả ngôi chùa Vàng Shwe Dagon nổi tiếng ở Rangoon.

Trong một cuộc phỏng vấn mới đây dành cho đài VOA, một nhà sư Miến Điện nói rằng chính phủ đã hạn chế sự đi lại của các tu sĩ, đặc biệt là những nhà sư trẻ.

Vị sư này nói rằng các tăng ni không được tự do đi lại; họ bị giới hữu trách đòi cho xem giấy tờ tùy thân và thường xuyên bị tra hỏi. Vị sư nói thêm rằng các nhà sư trẻ còn gặp nhiều khó khăn hơn.

Những nhà sư được giới hữu trách cho phép di chuyển thì nói rằng họ bị nhà chức trách theo dõi từng bước.

Tuy có sự đàn áp dữ dội như thế, những nhân vật tranh đấu cho dân chủ Miến Điện vẫn không chùn bước. Mới đây, các nhà sư thuộc Liên Minh Tăng Già Toàn Miến (All Burma Monks Alliance) đã đưa ra một tuyên cáo đòi chính phủ tạ lỗi về vụ đàn áp tăng ni năm 2007 và trả tự do cho những nhà tu hành đang bị giam cầm.

Liên minh này đã đề ra thời hạn chót là ngày 3 tháng 10 để chính quyền thỏa mãn hai đòi hỏi vừa kể. Họ nói rằng trong trường hợp chính quyền không đáp ứng, họ sẽ kêu gọi toàn thể tăng ni trên cả nước từ chối tiếp nhận phẩm vật cúng dường của nhà chức trách, kể cả của những nhân vật cao cấp trong chính quyền quân nhân.

Lời kêu gọi đó có phần chắc sẽ được các tu sĩ hưởng ứng.

Một nhà sư trẻ Miến Điện nói rằng ông phải tuân lời các nhân vật lãnh đạo trong hàng giáo phẩm, và trong thâm tâm, ông rất ngưỡng mộ những nhà sư sẵn sàng hành động để bảo vệ người dân.

Tại Rangoon, những người ủng hộ dân chủ nói rằng thành phố này đang yên tĩnh nhưng đây là một sự yên tĩnh ngột ngạt. Họ nói thêm rằng chắc chắn là một ngày nào đó thành phố này sẽ thoát ra khỏi sự ngột ngạt và sợ hãi. 


VOA News

Sunday, September 27, 2009

Thông Báo Khẩn Cấp : CSVN Thách thức Cộng Đồng Bắc Cali Tổ Chức Hội Nghị Ngay Tại Tiền Đình Thị Sảnh San Francisco trong 2 ngày 15-16 tháng 11 sắp tới .








Phó vụ trưởng VGDĐH Nguyễn Thị Lê Hương đã có văn thư phúc đáp yêu cầu của Nguyễn Tấn Dũng là sẽ công khai tổ chức Hội Nghị "Gặp Gỡ Việt Nam" (Meet Vietnam) . Hội Nghị nầy dự trù sẽ tổ chức ngay tại tiền đình thị sảnh (City Hall) thuộc T.P San Francisco trong 2 ngày 15-16 tháng 11 sắp tới .

Đây là một thách thức to lớn đối với cộng đồng Bắc California nói riêng và toàn thể cộng đồng NVHN California nói chung .

Chỉ còn thời gian ngắn hơn một tháng, xin đồng bào Bắc California hãy chuẩn bị kế hoạch đối phó .

Xin đồng bào Nam California và các vùng phụ cận đổ quân ểm trợ cho cộng đồng Bắc California .







BẮC CALI QUYẾT TÂM GIỮ VỮNG PHÒNG TUYẾN !





Tin tức cập nhật về Hội Nghị Việt Gian CSVN tại Bắc California ngày 15-16 tháng 11 sẽ được phổ biến tại link nầy . Post nầy dành riêng cho tin tức, xin bạn đọc đóng góp ý kiến vào link dưới đây :


http://www.vietland.net/main/showthread.php?t=9077

Kính

Đặng Quỳnh Như .

Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đến Nam California: ‘Lòng tôi luôn hướng về người Tây Tạng’


LONG BEACH - Buổi thuyết giảng tại Long Beach Convention Center, vào ngày 25 và 26 Tháng Chín của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần của dân tộc Tây Tạng, lôi cuốn hàng chục ngàn người từ khắp nơi đổ về Long Beach, thành phố có bờ biển dài nhất miền Nam California.

* Giới truyền thông cần ‘phụng sự cho công lý và sự thật!’

Trong khi không khí ở bên ngoài Long Beach Convention Center tấp nập từng đoàn người đủ mọi lứa tuổi, mọi sắc dân chen nhau đông vui như trẩy hội, thì bên trong, viên chức ngành an ninh và tình báo Hoa Kỳ toát mồ hôi với nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho buổi gặp gỡ giữa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma với báo chí.

Một tăng sinh Ðài Loan, hiện ở tại Hoa Kỳ, cho biết ông đã từ Kentucky bay đến Long Beach để tham dự buổi hoằng pháp của Ðức Ðạt Lại Lạt Ma. “Ðây không phải là lần đầu tôi đến nghe ngài thuyết giảng.” Dù ngài giảng ở bất cứ đâu, “tôi luôn cố gắng đi nghe,” để học “áp dụng triết lý cao siêu của nhà Phật vào đời sống hàng ngày.”

Sau khi phải xếp hàng rất dài, phải trải qua cổng security, điểm danh, xét ID, và các túi hành trang được đội chó K9 dò tìm vũ khí, giới truyền thông được đưa vào phòng họp, nơi số nhân viên an ninh hiện diện cũng đông ngang với báo giới.

Buổi họp báo bắt đầu trễ hơn một giờ đồng hồ so với dự định, khiến một số phóng viên tỏ vẻ sốt ruột, nhưng ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm khi Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, từ một cửa bên hông bước vào phòng.

Ngài vừa đi, vừa chắp tay hoa, vái chào mọi người.

Ðối với nhiều ký giả, đây là lần đầu được diện kiến Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, vị lãnh tụ tinh thần khả kính của người Tây Tạng.

Và đa số đã bị chinh phục ngay lập tức với thần sắc uy nghi nhưng khiêm cung của ngài.

Ân cần gửi lời chào đến cử tọa, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma bảo rằng mọi người đều có thể sống hạnh phúc nếu mọi người đều đối xử thành thực, công bằng với nhau và “có lòng trắc ẩn với tha nhân.” Và, với tư cách một tín đồ Phật Giáo, bổn phận của ngài là “gieo rắc tình thương” đến muôn nơi.

Ðức Ðạt Lai Lạt Ma chia sẻ quan điểm của ngài về vai trò truyền thông. “Báo giới có một thiên chức lớn lao với xã hội.” Ngài nói. “Ðó là phụng sự công lý và sự thật.” Ðể đảm nhận được trọng trách đó, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma cho rằng, nhiều khi ký giả “không thể chỉ tường trình, mà còn phải điều tra.”

Rồi ngài nói đùa: “Do đó các ký giả phải có những chiếc mũi ‘dài như vòi con voi,’ đôi tai có thể ‘nghe được tiếng côn trùng,’ phải đeo ‘thêm một đôi mắt ở sau lưng,’ và có một cái đầu ‘luôn luôn thắc mắc.’”

Phóng viên Người Việt đặt câu hỏi, giữa vai trò lãnh đạo tôn giáo, và lãnh đạo quốc gia, vai trò nào “nhiều thử thách hơn.”

Ðức Ðạt Lai Lạt Ma cho biết từ nhỏ ngài đã được trau dồi để trở thành một lãnh đạo tôn giáo, và “không hề được huấn luyện để trở thành một chính trị gia.” Vì thế, khuynh hướng tự nhiên của ngài là “hướng về toàn thể chúng sinh”. Tuy nhiên, “ở một mặt khác, lòng tôi cũng luôn hướng về người dân Tây Tạng,” vì “khi chúng tôi mất độc lập, phải sống kiếp sống lưu vong, chắc chắn cũng phải có những khắc khoải nào đó.”

Trả lời câu hỏi kế tiếp của Người Việt về nguyện vọng tha thiết nhất của ngài cho người dân Tây Tạng, Ðứt Ðạt Lai Lạt Ma trả lời ngay: “Một nền dân chủ thực sự.” Ngài giải thích thêm, “từ năm 2001, chúng tôi đã bầu ra lãnh đạo của Tây Tạng theo thể chế dân chủ, vị này lãnh đạo được hai nhiệm kỳ,” và chúng tôi sẽ phải “chuẩn bị cho một cuộc bầu cử nữa vào năm 2011.”

Ngài tin rằng “người Tây Tạng phải được bầu ra người lãnh đạo của họ theo thể chế dân chủ,” và “đã có nhiều nỗ lực dân chủ hóa Tây Tạng từ nhiều năm nay.”

Nhà báo Lý Kiến Trúc, chủ nhiệm nguyệt san Văn Hóa, đặt câu hỏi liệu ngài có dự tính đến thăm Việt Nam và chúc phúc cho 60 triệu tín đồ Phật tử, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đùa ý nhị: “Không có thư mời!” (“There is no invitations”)

Giữa những tiếng cười rộ trong phòng, ngài giải thích thêm, ngay cả tại những quốc gia đang theo chế độ Cộng Sản như Trung Quốc và Việt Nam, nơi mà đời sống tôn giáo bị kềm chế, “tôi tin rằng sâu thẳm trong trái tim những nhà lãnh đạo này, họ vẫn tin vào một đấng Thượng Ðế, nhưng họ chỉ chưa thắng được những ham muốn của chính mình.”

“Ðó là lý do tại sao tôi đi khắp nơi để thuyết giảng!”

Một phóng viên của tờ Tibetan Times hỏi rằng ngài đã từng phát biểu “mong sao chính quyền Trung Quốc ngày càng mỏng đi,” vậy dự tính kế tiếp của ngài là gì. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma cười và trả lời: “Tôi từng được gặp một số trí thức và học giả Trung Quốc, họ rất chân thành, rất hiểu, và rất đạo đức,” “những người này vào được chính quyền thì rất tốt.”

Tuy nhiên, “ngay tại Trung Quốc, cũng có nhiều khuynh hướng khác nhau.”

Ða số các câu hỏi còn lại của buổi họp báo kéo dài đúng 30 phút xoay quanh vấn đề tự trị của Tây Tạng, và mặc dầu các ký giả không nhắc nhiều đến hai chữ Trung Quốc, đa số đều tỏ ra thấu hiểu tình cảnh của người dân Tây Tạng, và ủng hộ nỗ lực đấu tranh để dân chủ hóa đất nước họ.

Trước khi chấm dứt buổi họp báo, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma một lần nữa nhắc nhở giới truyền thông về “trách nhiệm xã hội” của họ: “Phụng sự cho công lý và sự thật!

Hà Giang/Người Việt

Hãy Giữ Vững Phòng Tuyến Bắc Cali ơi !


Có thể sau khi nghiên cứu chiến trường chống cộng của NVHN, đảng CSVN Nguyễn Tấn Dũng chỉ thị đánh lớn ở San Francisco . Tại sao San Francisco ? Đây là một thành phố nổi tiếng về du lịch , một thương cảng lớn ở Bắc Cali, hơn nữa SF nằm gần các cộng đồng Bắc Cali như San Jose, Tri-City, Oakland, Sacramento... "Dùng nông thôn bao vây thành thị, dùng tỉnh thành bao vây thành phố" Kế hoạch VC xưa nay là dùng các nơi gần đó nhộm đỏ trước rồi tới các thành trì của NVHN chung quanh .

Năm 1994 với sự trợ giúp của Vũ Đức Vượng một Việt kiều thân cộng ở Bắc Cali đã đưa phái đoàn CSVN tổ chức 3 ngày Viet Expo tại Ford Mason San Francisco . Lúc đó đồng bào Bắc Cali đoàn kết như một khối sắt. Với sự yểm trợ ngày đêm của 4 tờ báo, 3 đài phát thanh đưa tin liên tục gần như 24/24 vận động cho cuộc biểu tình . Các tổ chức trong Liên Hội Bắc Califonia họp hành liên tục cùng chung với các hội đoàn khác để vận động tổ chức biểu tình . Các hội sinh viên trong vùng, Hội phụ nữ, Bô Lão đứng chung với các hội đoàn cựu quân nhân Nhảy Dù, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến , Không Quân , Hải Quân có mặt đầy đủ không thiếu người nào .

Tinh thần người Việt Quốc Gia tại Bắc Cali lúc đó là một tinh thần rèn trui bằng thép, đoàn kết như keo sơn đã dựng lên một trường thành vững chắc để ngăn chận sự xâm nhập của thế lực đỏ . Để chứng tỏ khả năng mình trong 3 ngày số đồng bào biểu tình chống VietExpo-94 lên trên 10,000 người . Đây là một cuộc biểu dương lớn nhất chưa từng có của cộng đồng Bắc California . Cờ Vàng đã dương cao ở các ngọn đồi chung quanh khu vực trải dài tới cảng Ford Mason và tràn ngập khu vực VietExpo CSVN . Sinh viên học sinh NVQG xâm nhập vào bên trong hội trường tố cáo tội ác CS đã làm cho 3 ngày triển lãm tuyên truyền CSVN bị thất bại hoàn toàn .

Từ năm 1994 trở về sau cộng đồng Bắc Cali tan rã ! Sự chia rẽ trầm trọng giữa Liên Hội Bắc Cali và Hội cựu tù nhân chính trị . Đài phát thanh, báo chí cộng đồng thay vì chống cộng lại đưa mũi dùi chống đối nhau . Đài phát thanh quê hương và Hội cựu tù nhân chính trị tổ chức biểu tình chống Liên Hội Bắc Cali, chống ông Vũ Văn Lộc , IRCC . Liên Hội Bắc Cali lùi vào bóng tối và sau đó tự giải tán . Hội cựu tù nhân chính trị với Đài Phát Thanh Quê Hương đã trở thành biểu tượng chống cộng giữ vững thành trì Bắc Cali một thời gian từ 1997-2001 . Sau năm 2001 bên trong nội bộ Cộng Đồn Bắc Cali xung đột để rồi chia thành 2,3 lực lượng chống đối nhau .

Sau năm 2001 Cộng Đồng Bắc Cali không còn là biểu tượng của thành trì Chống Cộng vững chắc như thời gian trước đây . Sự chia rẽ ngày càng thêm trầm trọng đã làm lợi cho sự xâm nhập của CSVN .

Năm 2006 CSVN trở lại Ford Mason tổ chức Vietnam's Day lần nữa tuy không còn vững như trước nhưng cộng đồng Bắc California cố gắng vận động đè bẹp chương trình Vietnam's Day .

Ngày 15-16 tháng 11 sắp tới , thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng chỉ thị tấn công thành trì Bắc Cali bằng một VietExpo mang tên "Meet Vietnam" được tổ chức ngay tại City Hall của San Francisco . Phó Thủ Tướng CSVN Hoàng Trung Hải và Nguyễn Thiện Nhân đích thân chỉ huy trận đánh nầy .

Trong khi bọn Việt Gian và các tổ chức thân cộng ngày đêm hung hăng vận động cho tổ chức của chúng qua văn thư, email tràn ngập thì Cộng Đồng Bắc Cali giữ yên lặng . Sự yên lặng vì không đủ sức chống giữ thành trì hay sự yên lặng vì chấp nhận đầu hàng ?

"Bọn CSVN chưa dám tổ chức VietExpo "Meet Vietnam" ở Houston hay Nam Cali vì chúng nó sợ bị vỡ mặt" Đây là một lời nói tôi ghi nhận được từ một người bạn . Bắc Cali không khác gì Cao Nguyên năm xưa nếu Cao Nguyên bị thất thủ thì Sàigòn sẽ bị thất thủ . Muốn giữ vững Bắc Cali trong lúc nầy cần phải cầu viện sự đổ quân của Nam Cali và các cộng đồng lân cận là một sự việc làm cần thiết. "Meet Vietnam" do phó Thủ Tướng CSVN Hoàng Trung Hải và Nguyễn Thiện Nhân chỉ huy nên chúng ta không thể xem thường .

Tôi là một phụ nữ ở Bắc Cali trong một thành trì gần như bị thất thủ tôi mong các cộng đồng Bắc Cali hãy bỏ qua mọi dị biệt trong lúc nầy để cùng nhau chống lại sự xâm nhập của thế lực đỏ CSVN . Chúng ta không thể ngồi yên để bọn CSVN tung hoàng ngay trên mãnh đất chúng ta đang ở .

Nguyễn Thị Sông Hương

Buôn Dân Bán Nước

Cả mấy chục năm sau, người dân ở Miền Bắc CS mới biết, Thủ Tướng CS Hà nội gởi công hàm dâng hai đảo Hoàng sa và Trường sa cho Trung Cộng. Vì rằng lúc bấy giờ trong thời chiến tranh, dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa CS kiểm soát nghiệt ngã truyền thông đại chúng và xa lộ Internet trên thế giới chưa có. 


Còn bây giờ thì khác. Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn tấn Dũng bí mật nhận 50 tỷ Đô la của CS Bắc Kinh với cái giá trao chủ quyền gần hết Biển Đông của VN cho TC, nhượng đất ở Cao Nguyên cho TC vào lập làng, lập chợ, lập xưởng khai thác bauxite ở Cao Nguyên Trung phần VN, và tạo mọi dễ dàng cho hàng hoá, công ty và con người của TC vào VN. Hành động buôn dân bán nước đó - chưa đầy hai năm -- đã bị "lòi chành té bứa". Nói theo tiếng của địa phương mà người Miền Tây Nam Việt thường nói, nói khá lâu rồi về hành động và con người CS phản quốc, mải quốc cầu vinh là Thủ Tướng VC Nguyễn tấn Dũng này.



Bây giờ dư luận xầm xì ở VN về Thủ Tướng VC Nguyễn tấn Dũng nhạn của CS Bắc Kinh 50 tỷ Đô la nay đã "chạy nhựt chình" quốc tế, thành thông tin, nghị luận thế giới rồi. Báo điện tử Asia Sentinel ngày Thứ Hai 21 tháng 9, năm 2009 có một bài "Việt Nam bịt miệng những người chỉ trích Trung Quốc", với chủ đề "Những nhà báo trên mạng và bogger hãy cẩn thận. 'Đại Ca' đang canh chừng. Nơi nguy hiểm nhất đối với những người công kích chính quyền Trung Quốc là nước Việt Nam".



Báo này đưa ra sự kiện chứng minh CS "Hà Nội đã bí mật nhận của Bắc Kinh một số tiền khổng lồ 50 tỷ đô la cứu nguy... đó là lý do Hà Nội phải ra tay triệt hạ những tiếng nói chống âm mưu xâm lấn của Trung Quốc." Và củng cố lập luận về sự kiện nhận tiền 50 tỷ Đô la của TC đó bằng hành động mới đây của CS Hà nội ngửa tay xin vay của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á, 500 triệu đô la để cứu nguy ngân sách, là một dấu hiệu cho thấy chính phủ CS Hà nội không thể nào từ chối tiền cứu nguy của TC. Để mimh hoạ thêm.



Báo Asia Sentinel còn dẩn chứng thêm một số sự kiện khác. Như nhiều nhà đầu tư đã rút khỏi Việt Nam. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài giảm đến 82%. Việt Nam bị thâm thủng mậu dịch với Trung Quốc rất nặng nề. Ngân sách quốc gia của CS Hà nội khiếm hụt trầm trọng; năm nay khiếm hụt tương đương với 10,1% GDP, chớ không phải 9,8% như dự tính.



Theo báo trên mạng Asia Sentinel, CS Hà nội nhận 50 tỷ đô la của CS Bắc Kinh. Đổi lại CS Hà Nội cam kết để cho doanh nhân Trung Quốc sang Việt Nam làm ăn, và đó là nguyên nhân phải chiều lòng đàn anh Hoa Lục bằng cách trấn áp người có tư tưởng chống đối Trung Quốc. Tháng tư 2009, Thủ Tướng VC Nguyễn Tấn Dũng đi Bắc Kinh cam kết với thủ tướng Ôn Gia Bảo là sẽ cho các công ty Trung Quốc làm ăn dễ dàng tại Việt Nam. Nên không còn lạ gì khi nghe vị Thủ Tướng VC này "trước sau như một" tuyên bố khai thác buxite là "chủ trương lớn" của Đảng Nhà Nước.



Tác giả bài báo nói một số nhà bất đồng chính kiến tin rằng TC đã mua gọn chính phủ CS Hà nội bằng cách cho Hà Nội 50 tỷ đô la vào lúc khủng hoảng tài chính lên đến mức cao điểm. Cái gói tiền to này cho CS Hà nội sẽ làm cho vấn đề Hoàng sa và Trường sa nhỏ đi. Sự thật đã chứng minh. Trong bản đồ thềm lục địa CS Hà nội nạp cho Liên Hiệp Quốc và Uy ban Thềm lục địa quốc tế ở Jamaica, hai đảo này không còn nằm trong biển VN nữa. Trái lại cái lưỡi bò của TC liếm gần hết Biển Đông của nước VN.



Người dân Việt yêu nước ở Bắc, ở Trung, ở Nam, ở hải ngoại tin rằng việc Thủ Tướng VC Nguyễn Tấn Dũng đi Bắc Kinh cam kết với thủ tướng Ôn Gia Bảo là sẽ cho các công ty Trung Quốc làm ăn dễ dàng tại Việt Nam, phần thua thiệt, thiệt thòi sẽ là đất nước và nhân dân VN. Người Tàu qua VN khỏi chiếu khán nhập cảnh sẽ trở thành kiêu binh của đội quân thứ năm của TC. 


Các công ty TC vào Cao Nguyên khai thác sẽ tàn phá môi sinh, văn hoá đồng bào Thượng và chiếm cao điểm và hành lang an ninh quốc phòng của VN như Đại Tướng Võ nguyên Giáp của CS đã nói. Hàng gian, hàng giả, hàng độc của TC bị hai thị trường lớn nhứt thế giới là Au và Mỹ chê bai, tẩy chay, xưởng hàng hoá của thế giới là TC sẽ tuồng tràn ngập lãnh thổ VN, giết kỹ nghệ VN vừa mới manh nha, làm nhân công VN thất nghiệp, nông dân VN càng làm càng lỗ.



CS Hà Nội đã lệ thuộc TC lại càng thần phục CS Bắc Kinh. CS Hà nội tưởng đã nắm chặt hơn 700 tờ báo thì giấu nhẹm được. Nhưng đâu có dè tiềm thức phấn đấu vươn lên của VN bị 1000 năm giăc Tàu bùng lên khi TC lập huyện Tam sa bằng hai đảo Hoàng sa và Trưòng sa của VN mà CS Hà nội đã bí mật nhượng và cho TC vào khai thác bauxite ở Cao Nguyên. Không vận dụng được báo chí do CS nắm, nhiều nhà báo xé rào viết blog chánh trị trên Internet, CS rất khó kiểm soát. Khó vì những người viết blog chánh trị đánh du kích, trà trộn trong 21 triệu người có Internet ở VN trong đó có 4 triệu người viết blog.



CS Hà nội một mặt lo ngại có lộn xộn trước đại hội đảng vào năm 2011 thường là cơ hội đổi thay ba người cầm đầu đảng nhà nước. Nên trước đại hội CS Hà nội mở một cuộc càn quét, định làm im tiếng nói của những người bất đồng chánh kiến. Từ tháng 12 năm rồi, CS Hà nội đã ra quyết định kiểm soát blog để chận đứng những nhà đấu tranh cho dân chủ dùng blog để bàn về chánh trị dưới bí danh. 

Công an đã bắt ông Nguyễn xuân Nghĩa một nhà vận động dân chủ và Ô Lê công Định, một luật sư nhân quyền nổi trội. Mặt khác CS Bắc Kinh bực bội và chỉ thị CS Hà nội phải làm im những tiếng nói người Việt trong và ngoài Đảng Nhà Nước càng ngày phê bình, chỉ trích, chống đối càng nhiều, càng mạnh người láng giềng khổng lồ phương băc xâm lấn VN và nhà cầm quyền CS Hà nội quá yếu hèn.



Việc chống TC nguyên do chánh người Việt trong ngoài đảng, tổ chức nhà nước, không phân biệt tôn giáo chống TC và CS Hà nội hiện thời không phải là sự rạn nứt của tình "đồng chí" hay sự trổi dậy của tinh thần bài ngoại của người Việt. Vì rằng người Việt bản chất ít bài ngoại, nhứt là người Miền Nam ở ngả tư quốc tế và từng tiếp xúc rất sớm với người Tây Phương. 

Nhưng với người Tàu thì rất dè dặt và rất dễ hiểu; do 1000 năm bị giặc Tàu cai trị. Bao đời khởi nghĩa danh lưu muôn thuở đều chống giặc Tàu, giành độc lập là chánh: Hai Bà Trưng, Ba Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Dè dặt như trong lịch sử cận đại, thời Đệ nhứt VNCH cấm không cho người Hoa làm một số nghề. Thời Đệ nhị Cộng Hoà buộc trường Tàu phải dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ.



Nguyên do chánh phong trào chống TC thời CS Hà nội chỉ vì CS Hà nội bán đất, dâng biển cho TC để lấy đồng la xanh, chỉ tệ mạnh. Chống cả TC và VC vì cả hai đều là chánh phạm. Tội buôn dân, bán nước, mãi quốc cầu vinh là một tội tày trời đối với người dân Việt, một tội trời không dung, đất không tha, dân không để.



VI ANH

Thế giới lên án bản Báo cáo Nhân Quyền của CSVN



Ngày 24 tháng 9 vừa qua, Ủy hội nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã nhóm họp tại Genève để kiểm điểm định kỳ bản báo cáo nhân quyền của Cộng sản Việt Nam. Sau đó, trên trang điện tử của chế độ, Hà Nội đã cho đăng một bài đề cập về bản báo cáo nhân quyền cùng với những lời ngụy tạo gọi là ủng hộ bản báo cáo này của một số quốc gia. Bản báo cáo nhân quyền của Cộng sản Việt Nam do thứ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh, trình bày một số điểm chính như sau:

“Quan tâm và thúc đẩy các quyền con người cho mọi người dân Việt Nam luôn là ưu tiên của đảng và nhà nước Việt Nam, là nền tảng được phản ánh nhất quán và xuyên suốt trong mọi chính sách, luật pháp của nhà nước Việt Nam…. Các quyền dân sự và chính trị được ghi rõ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ hiến pháp cho đến văn bản pháp luật trên nhiều lĩnh vực khác nhau. 

Chỉ tính riêng từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13,000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các quyền dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn. Quốc hội khẳng định vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất đại diện cho ý chí và nguyên vọng của nhân dân, trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. 

Sự tham gia tích cực và chủ động của các lực lượng phản biện xã hội như báo chí, truyền thông, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và của chính người dân cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như ý thức của người dân về các quyền mà họ được hưởng”.

Về sinh hoạt dân chủ, bản báo cáo nhân quyền của CSVN còn viết như sau: “Quy chế dân chủ ở cơ sở do nhà nước ban hành năm 1998 đã tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia (sic). Quyền lập hội của người dân được bảo vệ bằng pháp luật và được thể hiện trên thực tế. Việt Nam hiện có 380 hội đoàn hoạt động trên phạm vi toàn quốc, 18 tổ chức công đoàn, nhành, 6.020 tổ chức địa phương và hàng nghìn hiệp hội, câu lạc bộ hoạt động trong lãnh vực xã hội nằm trong khuôn khổ cho phép của nhà nước. 

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin của người dân được thể hiện rõ qua sự phát triển nhanh chóng, đa dạng về loại hình và phong phú về nội dung của các phương tiện thông tin đại chúng. Tính đến năm 2008, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in với 850 ấn phẩm, gần 15.000 nhà báo, truyền hình phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam, 1 hãng thông tấn, 80 báo điện tử và hàng ngàn trang tin điện tử trên mạng Internet, 55 nhà xuất bản. Việt Nam hiện có khoảng 20 triệu người truy cập Internet, chiếm 23.5% dân số, cao hơn mức trung bình của Châu á (18%)”.

Bản báo cáo còn đề cập nhiều vấn đề khác liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, chỉ số phát triển con người, chính sách xã hội đối với phụ nữ trẻ em, sắc tộc, xóa đói giảm nghèo v.v... Cộng sản Việt Nam đã khoe rằng đại diện của một số quốc gia tham dự buổi kiểm định đã “đánh giá cao” thành tựu về nhân quyền của Hà Nội. 

Bài báo của trang điện tử đảng Cộng sản Việt Nam còn viết rằng Cuba, Venezuela và Nga thì cho rằng “cách tiếp cận và phương pháp giải quyết của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người là một tấm gương để các nước học tập (sic). Brunei thì nói là “ghi nhận vai trò tích cực của Việt Nam trong việc xây dựng cơ chế nhân quyền ASEAN”

Thái lan thì nói là “Việt Nam đã cung cấp kinh nghiệm quý cho các nước khác trong việc thực hiện đầy đủ quyền người dân”. Algeria thì “coi những thành tựu của Việt Nam cũng như cách tiếp cận của Việt Nam trong việc thực hiện Cơ chế kiểm định định kỳ là một đóng góp thiết thực vào cơ chế hoạt động của Ủy hội nhân quyền Liên Hiệp Quốc”.

Tuyệt nhiện, Hà Nội đã không hề nói đến những phê phán và những đòi hỏi cải thiện tình trạng vi phạm nhân quyền hiện nay tại Việt Nam của hầu hết các quốc gia tham dự buổi kiểm định định kỳ ngày 24 tháng 9 tại Genève. Bản báo cáo và phần tóm lược buổi kiểm định đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam cho chúng ta thấy sự coi thường dư luận của Hà Nội và cái gọi là “quan tâm và thúc đẩy quyền con người” của Cộng sản Việt Nam chỉ là láo khoét và bịp bợm. 

Tổ chức Human Rights Watch (HRW) đã cho rằng bản báo cáo và thái độ ứng xử của Cộng sản Việt Nam trong buổi kiểm định ngày 24 tháng 9 vừa qua là một trò hề.

1/ Cộng sản Việt Nam đã từ chối 45 khuyến cáo của các quốc gia thành viên trong Ủy Hội nhân quyền Liên hiệp quốc về những vi phạm của Hà Nội đối với các quyền dân sự. Ví dụ như khuyến cáo Hà Nội chấm dứt kiểm soát Internet, Blogger và chấp nhận báo chí tư nhân, cho phép các nhóm và cá nhân đẩy mạnh các sinh hoạt nhân quyền, quyền phát biểu tự do, sửa đổi những luật lệ cáo buộc các tội trạng đối với những nhà đối kháng ôn hòa, phóng thích toàn bộ những tù nhân lương tâm, bãi bỏ toàn bộ án tử hình v.v...

2/ Cộng sản Việt Nam đã từ chối mời những chuyên gia về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc viếng thăm Việt Nam bao gồm cả những quan sát viên đặc biệt của Liên Hiêp Quốc về các vấn đề liên quan đến tự do trình bày, tự do tín ngưỡng, tra tấn, bạo hành đối với phụ nữ v.v...

3/ Cộng sản Việt Nam đã phủ nhận việc bắt giữ và cầm tù hàng trăm tù nhân lương tâm và những nhà hoạt động tôn giáo. Cộng sản Việt Nam đã trắng trợn chối rằng họ không bắt giữ bất cứ ai chỉ trích chính phủ, mà chỉ bắt giữ những người vi phạm luật pháp mà thôi.

4/ Đại diện của 15 quốc gia gồm Á Căn Đình (Argentia), Úc Đại Lợi (Autralia), Áo (Austria), Azerbaijan, Ba Tây (Brazil), Burkina Fasco, Gia Nã Đại (Canada), Chí Lợi (Chile), Phần Lan (Finland), Pháp Quốc (France),. Đức Quốc (Germany), Ireland, Ý Đại Lợi (Italy), Mã Lai (Malaysia), Mễ Tây Cơ (Mexico), Hòa Lan (Netherland), Tân Tây Lan (New Zealnd), Na Uy (Norway), Ba Lan (Poland), Nam Hàn (South Korea), Thụy Điển (Sweden), Thụy Sĩ (Switzerland), Anh Quốc và Hoa Kỳ đã mạnh mẽ khuyến cáo tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam trong phiên họp vào tháng 5 của Ủy hội nhân quyền Liên Hiệp Quốc.

Báo chí và truyền thông quốc tế đã đồng loạt loan tải những chỉ trích và phê phán của các tổ chức nhân quyền thế giới và đại diện của một số quốc gia về sự ngoan cố của Cộng sản Việt Nam trong việc phủ nhận không có tù nhân lương tâm tại Việt Nam cũng như không chịu cải sửa những vi phạm về quyền dân sự và chính trị, quyền tự do báo chí và ngôn luận, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, quyền tự do Internet và Blogger. 

Điều này cho thấy Cộng sản Việt Nam, một là đã trắng trợn gian dối trong bản báo cáo và tiếp tục ngoan cố khi bị thế giới lên án, cùng lúc đánh lừa dư luận trong nước về phản ứng của thế giới trước sự gian trá của chế độ; hai là Hà Nội quá ngu dốt, lạc hậu và độc ác để có thể hiểu được thế nào là tôn trọng nhân quyền, và đã hành động hoàn toàn ngược lại với với những gì mà họ đã viết lên trong bản cáo nhân quyền. Chính điều này mà dư luận thế giới cho rằng Cộng sản Việt Nam đã tỏ ra nhạo báng trách nhiệm về quyền con người (Vietnam “making a mockery of right obligations").

Trung Điền

Việt Nam coi trách nhiệm về “nhân quyền” như trò hề


HÀ NỘI - Một tổ chức nhân quyền quốc tế nói Việt Nam xem trách nhiệm trước Hội đồng Nhân Quyền của LHQ như trò hề.

Nước CHXHCN (cộng sản) Việt Nam đã từ chối một loạt những khuyến nghị để cải thiện hồ sơ nhân quyền của Việt Nam trong lần duyệt xét định kỳ của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vừa kết thúc tuần này, Human Rights Watch (HRW) cho biết như thế trong một bản tuyên bố.

“Việt Nam - một thành viên của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc - đã xem việc họ tham gia vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc như một trò hề,” Elaine Pearson, Phó Giám đốc Châu Á của tổ chức HRW cho hay.

“Việt Nam từ chối ngay cả những kiến nghị căn bản nhất dựa trên các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, chẳng hạn như cho phép người dân để cổ suý nhân quyền con hoặc (tự do) bày tỏ ý kiến của mình.”

Hà Nội từ chối 45 đề nghị từ các quốc gia thành viên LHQ, HRW cho biết, kể cả việc kiểm soát internet và viết blog bằng phương tiện của các tổ chức truyền thông tư nhân, cho phép các nhóm và cá nhân cổ suý nhân quyền, bỏ hình phạt tử hình và thả tù nhân lương tâm.

Nhiều điều trong số 93 khuyến nghị được Chính phủ Việt Nam chấp nhận, chỉ là những tuyên bố chung chung về ý định “xem xét” những đề xuất của các nước thành viên, HRW nói. 




Eliane Pearson: “Việt Nam coi trách nhiệm về ‘nhân quyền’ như trò hề”
Nguồn: AP Photo



“Việt Nam đã trắng trợn chối phăng trước Hội đồng Nhân quyền việc họ đã bắt và giam giữ hàng trăm người bất đồng chính kiến ôn hòa và những người hoạt động tôn giáo độc lập,” bà Pearson cho biết thêm.

“Tuy nhiên, chỉ trong bốn tháng kể từ lần xuất hiện cuối cùng trước Hội đồng Nhân quyền LHQ, Việt Nam đã bị bắt giữ thêm nhiều người hơn nữa.”

Trong quá trình duyệt xét của Hội đồng Nhân Quyền Việt Nam cho biết không có “cái gọi là tù nhân lương tâm” tại đây, và không có ai bị bắt giam vì phê bình Chính phủ, và Việt Nam cũng chối là không tra tấn người phạm tội.

“Giống như Trung Quốc, Việt Nam đã dứt khoát chối bỏ trước Hội đồng Nhân quyền trong nỗ lực tẩy uế hồ sơ nhân quyền nhơ nhuốc của mình,” Pearson nói thêm.

“Quá trình duyệt xét hồ sơ Nhân quyền của Liên hiệp quốc đã đưa bằng chứng cho thế giới thấy rằng mặc kệ mức quan tâm quốc tế, Việt Nam không có ý định thực sự cải thiện hồ sơ của nhân quyền của ho.”

Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đưa khuyến nghị sau mỗi lần duyệt xét thường kỳ hồ sơ nhân quyền của các nước thành viên.

Gần đây hơn 10 người đã bị bắt giữ tại Việt Nam vì phát tán những “tuyên truyền chống phá nhà nước”. HRW nêu trường hợp của Huỳnh Bá làm thí dụ. Huỳnh Bá là một người hoạt động cho quyền sở hữu đất đai và thành viên của dân tộc thiểu số Khmer Krom lãnh đạo cuộc biểu tình của nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long, vì bị chính phủ chiếm thu đất, đã bị bắt ngày 30 tháng 5.

Hơn 1.000 thành viên của cộng đồng giáo hữu Kitô phần lớn là người miền núi chạy trốn sang Campuchia sau khi lực lượng công an ninh đàn áp các cuộc biểu tình ở Tây Nguyên vào năm 2001 cùng lúc với chiếm thu đất và đàn áp tôn giáo của người thiểu số ở đây.

Việt Nam đã không nhận lời buộc tội của Human Rights Watch năm 2006 rằng nhà nước CSVN đã giam giữ và tra tấn những người thiểu số Tây Nguyên khi họ từ Campuchia về lại Việt Nam sau khi có thỏa thuận ba bên.


Sáu Điều Tâm Niệm Của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa

Là Chiến Sĩ VNCH,

Điều 1: Tôi nguyện chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để chiến đấu bảo vệ cho sự sống còn của Tổ Quốc, của gia đình và của chính bản thân tôi.

Điều 2: Tôi tuyệt đối chấp hành các mệnh lệnh của cấp chỉ huy, đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu tuyên truyền chia rẽ của giặc cộng.

Điều 3: Tôi luôn kính già, thương trẻ, đứng đắn với phụ nữ và giúp đỡ đồng bào.

Điều 4: Tôi luôn tâm niệm hành động làm mất lòng dân là xua dân về phía giặc cộng, là tự sát.

Điều 5: Tôi luôn đối xử tử tế với tù hàng binh địch (VC), không ngược đãi đánh đập họ, không đụng đến của riêng họ, để thêm bạn bớt thù.

Điều 6: Thực hiện các điều trên là tôi tích cực xây dựng tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho toàn dân, tôi sẽ được đền bù bằng sự cảm mến và biết ơn của Đồng Bào.

Không Quân VNCH và Chiến Trường An Lộc

Những con số thống kê :

Trận An lộc đã được ghi vào Chiến sử cũa Quân lực VNCH như một chiến thắng lẫy lừng, ngăn chặn được cuộc tấn công của CSBV trong Mùa Hè 1972. Sách báo Việt-Mỹ đã viết khá nhiều về sự chịu đựng và khả năng của các đơn vị Nhảy dù, Biệt cách Dù, Bộ binh, Thiết giáp nhưng chỉ đã đề cập đến vai trò của KQVNCH trong trận An Lộc bằng những con số khô khan..

- Tập Quân Sử Không Quân Việt Nam Cộng Hòa ( trang 176) ghi :
..’ Tại Vùng 3, An Lộc đứng vững một phần không nhỏ nhờ công lao và sự hy sinh xương máu của các phi hành đoàn trực thăng UH-1 và CH-47 trong suốt hơn hai tháng tử thủ. Chỉ riêng tại hai chiến trường KonTum và An Lộc, lưc lượng trực thăng của KQVN đã bị thiệt hại tới 70%, gồm 63 chiếc UH-1 bị rớt vì phòng không địch + 391 chiếc khác bị trúng đạn hư hại nặng..’

Và các nhà Quân sử KQ hình như đã ‘quên’ không nhắc đến các hy sinh của những Phi đoàn khu trục A-1, F-5 và của những Phi đoàn Vận tải C-123..chưa kể đến các chiến công thầm lặng của các EC-47, của các nhân viên chất hàng để thả dù tiếp tế cho An lộc..

- Tập sách tài liệu của KQ Hoa Kỳ ‘Air Power in Three Wars’ do Tường KQ William Momyer viết (trang 330-332) ghi :
‘..Cộng quân siết chặt vòng vây quanh An lộc và chỉ còn một đường duy nhất để tiếp tế cho Lực lượng trú phòng VNCH là dùng các phương tiện của Không quân. Lúc đầu chúng ta thử sử dụng các trực thăng CH-47 để chuyển đồ tiếp liệu, nhưng phòng không của địch đã khiến không thể dùng trực thăng.

Địch quân đã đặt súng phòng không dọc theo các hàng cây nên rất khó oanh kích: các xạ thủ CS thiết lập các vị trí súng máy trên các cành cây cao và nhắm bắn rất chính xác vào các bãi đáp của trực thăng..Khi tình hình tiếp vận trở nên căng thẳng hơn, các phi cơ C-123 của KQVN đã bay vào và dùng phưong pháp thả dù tiếp liệu bằng dù ở cao độ thấp, nhưng phòng không dầy đặc đã khiến phương pháp này phải ngưng sau 3 tuần..Sau khi các C-123 rút lui, việc tiếp tế đã phải giao lại cho Không đoàn 7 Hoa Kỳ..dùng các C-130s..’

..trung bình mỗi ngày, 185 phi suất dành cho việc phòng thủ An lộc. Các phi suất này thường phát xuất từ Biên Hòa và từ các căn cứ đặt tại Thái Lan, đa số là do các F-4. KQVNCH bay mỗi ngày 41 phi suất : Hỏa tiễn SA-7 và Súng phòng không CQ đã buộc các A-37(của KQHK) phải thả bom ở cao độ cao hơn F-4 rất nhiều..’

- Tập Quân sử của Không Quân Hoa Kỳ : The Vietnamese Air Force, 1951-1975, An Analysis of its Role in Combat’ chỉ tóm lược cuộc chiến Mùa Hè 72 bằng các con số ‘khô khan’ hơn :
Thống kê ‘Trận chiến mùa Hè’ 31 tháng 3 đến 30 tháng 4 năm 72 :
Không Quân VNCH :

- Số các phi xuất oanh kích yểm trợ bộ binh : 4651
- Số các phi suất ngăn chặn 340
- Số các phi suất thám sát 474
- Số các binh sĩ chuyển vận 40,484
- Số tiếp liệu chuyển vận 3,388 tấn
- Số phi cơ thiệt hại 36 chiếc
- Số phi cơ sử dụng 1366
- Số quân nhân tham chiến 47, 000

(Cần ghi nhận là Trận An lộc chỉ chính thức bắt đầu vào 5 tháng 4 và chấm dứt vào tháng 6-1972)
Trong một thống kê khác, có phần chính xác hơn đã ghi : Khi Cộng quân mở cuộc tấn công Hè-1972, KQVNCH có 1285 phi cơ, tổ chức thành 44 phi đoàn. 9 Phi đoàn khu trục bay các loại A-1, A-37 và F-5, tổng cộng có 119 chiếc khả dụng để oanh kích. 2 Phi đoàn Vận tải chiến đấu AC-47 và AC-119 với 28 phi cơ trong tình trạng hoạt động được. 17 Phi đoàn trực thăng với 367 chiếc khả dụng trong số 620 chiếc. 7 Phi đoàn quan sát tiền tiêu bay các loại O-1 và U-17 trong đó 247 chiếc khả dụng trong tổng số 303 chiếc..

Vai trò của Không quân :

Nhiệm vụ chính của Không Quân VNCH trong Trận An lộc gồm :

- Yểm trợ Chiến trường cho quân trú phòng bằng các phi cơ khu trục, có sự điều hành , hướng dẫn của các phi cơ quan sát.

- Chuyển quân và chuyên chở các phẩm vật tiếp liệu bằng các trực thăng cơ hữụ

- Thả dù tiếp tế bằng các phi cơ vận tải (sau khi CQ đã thiết lập hệ thống phòng không ngăn chặn sự tiếp vận bằng trực thăng)

- Theo dõi các cuộc liên lạc viễn thông, điện đàm của các đơn vị CQ bằng các Phi cơ tình báo điện tử.

Các đơn vị KQ yểm trợ cho Chiến trường An lộc :

- Sư Đoàn 3 Không Quân VNCH, bản doanh tại Biên Hòa, là đơn vị KQ chính có nhiệm vụ yểm trợ cho Chiến trường An lộc. Sư đoàn trưởng là Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, Sư đoàn phó : Đại tá Nguyễn văn Tường. Thiếu tá Nguyễn văn ­c là Sĩ quan Đại diện cho Không đoàn 43 Trực thăng bên cạnh Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 và chịu trách nhiệm điều hành công việc chuyễn quân và tản thương. Các lực lượng chính của SĐ 3 KQ là :

- Không đoàn 43 Chiến Thuật gồm 4 Phi đoàn trực thăng UH-1 : 221 (Lôi Vũ) , 223 (Lôi điểu), 231 (Lôi vân), 245 (Lôi bằng) ; 1 phi đoàn Chinook CH-47A : 237 (Lôi thanh) và 1 phi đội trực thăng tản thương UH-1 : 259Ẹ

- Không đoàn 23 Chiến thuật với các Phi đoàn Quan sát 112 và 124; Các Phi đoàn khu trục A-1: 514 và 518 , Phi đoàn F-5 :522.

- Sư đoàn 5 KQ tại Tân Sơn Nhất gồm

- Không đoàn 53 CT với các Phi đoàn 413 (C-119 G), các Phi đoàn C-123 (PĐ 421, 423 và 425).

- Không đoàn 33 CT với Biệt đội Trinh sát điện tử 716 (EC-47)

Trong giai đoạn giải tỏa An lộc KQ VNCH có huy động thêm một số phi công tăng phái từ SĐ 4 KQ thuộc PĐ 116 để bay các phi vụ quan sát chiến trường do PĐ 112 sắp xếp. Ngoài ra một số phi vụ chuyển quân của các đơn vị BB tăng viện từ SĐ 9BB và SĐ 21BB đã được các trực thăng thuộc các PĐ211 và 217 thuộc KĐ 84/ SĐ 4 KQ thực hiện..

Diễn tiến Trận đánh An lộc :

(Trận An lộc đã được nhiều Nhà quân sử ghi chép lại với rất nhiều chi tiết về những cuộc đụng độ của các đơn vị bộ binh và thiết giáp của VNCH và Cộng quân, cùng các hoạt động yểm trợ của Không quân Việt Mỹ . Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ ghi lại những hoạt động của KQ VNCH)

CSBV đã chính thức mở màn Chiến dịch mùa Hè 1972 của họ tại vùng 3 Chến thuật vào ngày 2 tháng 4; 60 giờ đồng hồ sau cuộc tấn công đầu tiên tại Vùng 1 CT và gần như cùng một lúc với các cuộc tấn công thăm dò tại KonTum (Vùng 2), khi dùng bộ binh và chiến xa tràn ngập Căn cứ hỏa lực Lạc Long, gần biên giới Kampuchea, cách Thị xã Tây Ninh khoảng 35 km về phía Tây Bắc.

Căn cứ này do Trung đoàn 49BB/ SĐ5 trấn giữ. Trung tướng Nguyễn văn Minh Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH phản ứng bằng cách cho rút tất cả các đơn vị hoạt động trong vùng biên giới Việt-Miên để thiết lập một tuyến phòng thủ mới quanh Tỉnh lỵ Tây Ninh (mà Ông nghĩ sẽ là mục tiêu tấn công của CQ), do đó CQ đã có thể chuyển quân dễ dàng trong vùng.

Tiền đồn duy nhất còn lại là Căn cứ Tống Lê Chân do TĐ 92 BĐQ biên phòng trấn giữ, lý do là Chỉ huy Căn cứ không chịu rút vì sợ sẽ bị CQ phục kích tiêu diệt (và Tống Lê Chân vẫn còn trong tay QL VNCH cho đến khi ký Hiệp định Đình chiến tháng Giêng năm 1973) .

Lực lượng BĐQ tại Căn cứ Thiện Ngôn tuân theo lệnh rút quân của Tướng Minh đã bị phục kích và mất toàn bộ các quân xa và vũ khí nặng. Cộng quân đã để tại chỗ các chiến lợi phẩm, không cần thu dọn chiên trường vì đã đạt được mục tiêu nghi binh của họ..An lộc, thay vì Tây Ninh sẽ là điểm tấn công để tạo một thủ đô cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Chiêu bài của CSBV)

Các trận tấn công tạo hỏa mù tại Tây Ninh đã giúp Công trường 9 CSBV di chuyển một cách bí mật về Vùng 708 tại phía Tây Bắc An lộc. Trong khi đó CT 5 CS đã tập trung sẵn quanh Lộc Ninh và CT7 đã ở trong vùng Nam An lộc để cắt đứt Quốc lộ 13..

Trận An lộc bắt đầu vào sáng sớm ngày 5 tháng 4 khi CQ pháo kích vào Tỉnh lỵ, đồng thời tấn cống thăm dò Phi trường Quản lợi, nằm về phía Đông Bắc An lộc khoảng 7 cây số. Đơn vị BĐQ trú đóng tại Phi trường đã buộc phải rút lui cùng với các Cố vấn HK. Các chiến sĩ còn trụ lại chỉ giữ được phi đạo đến hết ngày 6 tháng 4. CQ chiếm khu vực phi trường và cắt đứt Quốc lộ 13, về phía Nam An lộc. Công việc tiếp vận cho quân trú phòng phải tùy thuộc vào trực thăng và thả dù.

Trong khi CQ cô lập hóa An lộc, họ đã thanh toán các tiền đồn tại Lộc Ninh. Sáng 5 tháng 4 CQ đã bao vây chia cắt quân trú phòng thành 2 nhóm. Sự can thiệp của Trực thăng võ trang HK đã giúp kéo dài sự cầm cự. Các phi cơ phóng pháo đã thả những quả bom chùm chống bộ binh để ngăn chặn CQ. Các AC-130 võ trang cũng tạo những lưới lửa để giúp các đơn vị trú phòng chống trả các đợt tấn công của CQ có xe tăng yểm trợ.

Khi CQ tấn công Lộc Ninh, QĐ 3 VNCH đã phản ứng bằng cách gửi Chiến đoàn 52 (SĐ5 BB) gồm 2 Tiểu đoàn BB (TĐ1/52 và TĐ 1/48) tấn công tái chiếm 2 Căn cứ hỏa lực đã rút bỏ trước đó gần giao điểm của các Quốc lộ 13 và 17 ỡ giữa đường từ An lộc đến Lộc Ninh.

Ngày 6 tháng 4, một TĐ được lệnh tiếp cứu Lộc Ninh nhưng không vượt nổi chốt chặn của CQ, và sau đó cả Chiến đoàn được lệnh rút về lại An lộc, và sáng 7 tháng 4 Chiến đoàn đã bị CQ phục kích trong khi rút quân. KQ đã phải oanh kích phá hủy 3 đại bác 105 của CĐ để tránh bị CQ sử dụng.

CĐ phải tự hủy mọi xe cộ và trang bị để có thể vượt thoát các chốt phục kích của CQ. Một trực thăng bị hạ và 2 chiếc khác bị hư hại nặng..Sáng 8 tháng 4 một lực lượng KQ HK gồm AC-130, Khu trục và Trực thăng võ trang đã phải can thiệp để bốc toán 3 Cố vấn cùng 9 Quân nhân VNCH thoát khỏi vòng vây..
Sau khi Lộc Ninh thất thủ, CĐ 52 bị thiệt hại nặng, Phi trường Quản lợi bị mất, Quốc lộ 13 bị cắt đứt (phía Nam). An lộc được xem như đã bị hoàn toàn vây hãm.

- Các Phi vụ chuyển quân và tiếp tế :

Sau ngày 7 tháng 4, An lộc đã hoàn toàn bị bao vây và không còn phi đạo tiếp tế. Từ 7 đến 12 tháng 4, tất cả các phi vụ tiếp tế đã được thực hiện bằng Trực thăng và các C-123 của Không Quân VNCH và Hoa Kỳ.

(Trong thời gian này , các trực thăng Chinook CH-47 của Phi đoàn 237 VNCH ; các UH-1 của các PĐ trực thăng VNCH có thêm sự trợ giúp của các trực thăng Hoa Kỳ của Phi đoàn 229 HK, đã thực hiện được 42 phi suất chỡ hàng tiếp vận vào An lộc)

Trong khoảng thời gian từ 7 đến 19 tháng 4, KQHK và các trực thăng của KQ VNCH, phối hợp với các C-123 đã chở được 337 tấn tiếp liệu vào An lộc..Các phi vụ bay vào An lộc càng ngày càng trở nên nguy hiểm và gần như cảm tử. Hỏa lực của CQ đã gây hư hại nặng cho 3 chiếc UH-1 của KQHK trong lúc đang bốc rỡ hàng hóa..

Các chuyến trực thăng tiếp vận đã phải chấm dứt từ ngày 12 tháng 4 sau khi 1 CH-47 của KQVNCH bị trúng đạn súng cối của CQ bốc cháy và phát nổ khi đáp xuống bãi thả hàng.

Các tài liệu của Hoa Kỳ như ‘The Battle of An loc’ của James Willbanks, ‘Airwar over South VietNam 1968-1975’ của Bernard Nalty..đều ghi ngày chiếc CH-47 của VNCH bị rơi là 12 tháng 4, nhưng các bài hồi ký của các phi công trực thăng lại ghi là 13 tháng 4 . Sau đây là một sô đoạn trich từ cac bài viêt cũa những phi công CH-47

Trong bài Phi đoàn 237 CH-47A, tác giả Vũ văn Bảo ghi lại :

.. Tình hình chiến sự mỗi lúc một gia tăng và mãnh liệt nhất là trận An Lộc, mùa Hè 72. Mỗi sáng, chúng tôi tất cả các trực thăng thuộc KĐ 43 CT đều sang standby tại Lai Khê chờ lệnh, UH-1 vào trước với các binh sĩ tinh nhuệ Nhảy dù, Chinook vào sau với các khẩu trọng pháo 105 ly ở Đồi Gió, Tàu Ô, Tân Khai, bay cao, bay thấp đều bị bắn bằng đủ loại đạn, nhưng chúng tôi vẫn thi hành các phi vụ được giao phó.

2 Chinook đả tổn thất tại Tân Khai và Tàu Ô là PHĐ của Th/tá Nguyễn hữu Nhàn + Th/úy Đặng Thiên Hiền, cơ phi Ch/úy Kim, áp tải, xạ thủ đều hy sinh và PHĐ của Đ/úy Nguyễn văn Trọng + Th/úy Thanh bị băt và được giao trả năm 73 nhưng cơ phi, xạ thủ và áp tải hy sinh.. một Chinook của Tr/uy Lê quang Tiên và Đặng đức Cường bị băn cháy trên không, phải đáp khẩn cấp xuống Phi trường An lộc và được gunship bốc cứụ Phi cơ của Tr/úy Sơn và tôi bị trúng 1 viên 12,7 ly thủng bình xăng trái nhưng vô sự vì không phải đạn lửa vả nhiều phi cơ khác bị đạn nhưng không đáng kể..’

Trong các e-mail trao đổi giữa các phi công về ‘Những Kỷ niệm Khó Quên’ trên Diễn đàn Cánh Thép :

- Tác giả Vũ văn Bảo : ‘Nhắc đến thứ Sáu 13, tôi lại nhớ đến Đặng thiện Hiền, Hiền rất tin dị đoan, thường hay khai bệnh vào ngày nàỵ Nhưng chính Hiền lại tử nạn, hy sinh vào đúng ngày thứ Sáu 13 cùng với Phi Hành Đoàn của Thiếu tá Nguyễn Hữu Nhàn..’

- Tác giả Vương minh Dương : ‘..chiều hôm trước ngày anh Nhàn và Hiền bị rơi, tôi và anh Nhàn đang ngồi ở bậc thềm hành lang phi đoàn (PĐ) nhìn ra phi đạo 237 nói chuyện sau khi tôi đã cắt bay cho ngày hôm sau và người bay phi vụ này với Hiền chính là tôị

Anh chính có việc bận ở Sàigòn nên anh Nhàn túc trực tại PĐ, bỗng nhiên Đại tá Tường lái chiếc xe jeep lùn đến ngay chỗ tôi và anh Nhàn đang nói chuyện và ông hỏi PH đoàn nào đi Lai Khê ngày mai và không hiểu vì lý do gì Ông muốn hoặc anh Chính hay anh Nhàn bay phi vụ ấy, vì anh Chính cưa về nên anh Nhàn nói với tôi : mày để tao bay chỗ của mày...’

- Tác giả Lê Quang Tiên ghi rõ hơn : ..’Bữa đó thứ Sáu 13. Tôi không nhớ rõ tại sao chỉ có 2 chiếc đi Lai Khê, tôi bay chiếc số 2. Sau khi ăn cơm trưa xong thì chuẩn bị đi vào Tân Khai.. Sau hai phi vụ vào Tân Khai, tôi bay số 2, tiếp tế và di tản dân tỵ nạn, tôi vào số 2, bị pháo quá nên không bốc dân thường được, bị Th/tá Nhàn la quá trời..

Đến phi vụ thứ 3, sau khi dại bàng 1 đổ xăng xong, không biết tại sao, sàng qua câu hàng, mãi hồi lâu không câu được, thì Th/tá Nhàn bảo tôi : Tiên mày qua câu đi.. Tôi bay qua câu kiện hàng đó rồi đi trước và thành chiếc số 1 vào Tân Khai.. Tôi đáp vào Tân Khai, bốc dân và ay ra thì cross Th/tá Nhàn bay vàọ Tôi mới lấy cao độ thì nghe T/t Nhàn nói là : Tiên ơi, tao bị bắn rồi..

Tôi liền vào Tân Khai trở lại, thấy Đại bàng 1 đang bay thật thấp như thường lệ, không có gì khác biệt. Tôi liền gọi T/T bị bắn có sao không ? Không có tiếng trả lờị Tôi liền vòng sang phải sau Đại bàng 1 và nói T/T có sao không, đáp đi, tôi ở phía sau nè..Vẫn không có tiếng trả lờị Bay như vậy độ 1 phút và tôi tiếp tục gọi.. Bỗng dưng Đại bàng 1 go vertical, tôi chưa từng thấy, thẳng lên trời..rồi loss air speed, roll và đâm vertical xuống đất bùng nổ.Tôi liền gọi Mayday và không lâu sau toán rescue của Mỹ tới..’

Các CH-47 cũa KQVN cũng có nhiệm vụ đưa các khẩu đại bác 105 ly vào vùng hoạt động của TĐ 6 ND..
Tác giả Đỗ đức Thịnh thuộc LĐ81BCND trong bài ‘Hai tháng Tử thủ An lộc’ viết : ..’Nhịp độ pháo của địch tăng mạnh khi các Phi vụ Hõa long và AC-130 rời vùng.

Tại Đồi Gió, nằm ở hướng Bắc của Đồi 169 cách khoảng 3 km do đơn vị Pháo binh và TĐ 6ND đang lập tuyến phòng thủ cũng không may mắn gì hơn. Họ đang hứng chịu trận mưa pháo tập trung tới tấp khi hai chiếc trực thăng Chinook đang cố tiếp viện cho họ hai khẩu đại bác 105 mm.

Tôi nhìn khẩu đại bác móc tòn ten phía dưới bụng chiếc trực thăng đang cố đáp, tụi tiền sát viên phác của CQ đã điều chỉnh những quả đạn khá chính xác vào ngọn đòi ấỵ Từng bựng lửa, bụi đỏ tung lên dưới thân tầu làm cho hai chếc trực hăng bốc lên cao hơn, pháo ngớt hai chiếc trực thăng lại từ từ hạ thấp, cứ thế trong vòng 15 phút hai chiếc trực thăng không thể nào thả hai khẩu đại bác xuống và đành phải bốc lên cao..và bay về phía Lai khê..’

Sau các cố gắng, 6 khẩu 105 mm nòng ngắn cũng đã được đưa đến cho TĐ 6 ND nhưng sau đó cả 6 khẩu này đã bị CQ pháo kích hủy diệt.

Không Quân VNCH đã buộc phải dùng các C-123 và một số ít C-119 đã tìm cách thả các kiện hàng ở cao độ thấp từ 700 đến 5000 ft, dưới hỏa lực phòng không dảy đặc của CQ Các phi vụ thả hàng được thực hiện vào ban ngày, đường bay vào An lộc đều từ hướng Nam, dọc theo Quốc lộ 13.

Khi thả ở cao độ 5000 ft, đa số các kiện hàng bị lạc vào vùng kiểm soát của CQ. Trong hai ngày, các phi cơ VNCH đã thả được 27 chuyến với 135 tấn tiếp liệu nhưng chỉ 34 tấn đến được tay lực lượng trú phòng. Ngày 15 tháng 4. một C-123 bị hạ, toàn bộ Phi hành đoàn hy sinh.. và sau đó, ngày 19 tháng 4, một C-123 khác, chở đạn tiếp vận đã trúng đạn phòng không của CQ và nổ tung..

Các trường hợp hy sinh của 2 Phi hành đoàn C-123 tại An Lộc được Phi công HungPhan ghi lại như sau :
- Phi đoàn 425, C-123 K, Tail code xH. Ngày 15 tháng 4, 1972 ;
Trung úy Phạm văn Công (Trưởng phi cơ)
Tr/úy Hồng, Hoa tiêu phó
T/T Sét Điều hành viên
- Phi đoàn 425, C-123 K, Tail code xL. Ngày 19 tháng 4, 1972 :
Thiếu tá Nguyễn thế Thân Phi đoàn trưởng , Trưởng phi cơ

T/u Quách Thanh Hải, Hoa tiêu phó

Thượng sĩ Mã Hoàng, Cơ phi
Đ/u Ngân, Đ/u Trọng Điều hành viên
Thượng sĩ Thượng, áp tải
Phi công Hùng Phan cũng ghi lại :..Khi đụng đến An lộc, không có chuyện bay thấp bay cao gì nữa, bay cỡ nào cũng đụng phòng không mà lại phòng không hạng nặng, vừa nặng vừa nhiều ! Chúng tôi đã chất đầy những kiện hàng tiếp tế từ sáng sớm, để ngồi đó, để stand by dưới sức nóng của Hot cargo, nơi đầu phi đạo 25RH, nhìn những con chim sắt khổng lồ C-130 của USAF hốt hoảng, tả tơi bay về đáp dưới hai hàng xe cứu hỏa chạy theo, có chiếc bị bắn bể bánh mà không biết, có chiếc đầu cánh đã văng đâu mất tiêu, chúng tôi nhìn nhau ngao ngán..Mẹ ! nó bay nhanh hơn mình, nó thả cao hơn mình.. Thú thật tôi đã thở dài và rất thoải mái khi được lệnh hủy bỏ phi vụ..’

Ngày 15 tháng 4 1972, phi vụ của Phạm văn Công..không bị hủy bỏ..đem tàu qua Hot cargo từ 5 giờ sáng, 5 chiếc C-123K của KĐ 53/CT đã chất đầy hàng và sửa soạn cất cánh thì được lệnh stand by vì B-52 sắp trải thảm, rồi đến C-130 của US được ưu tiên..

Và Tr/úy Châu đức Tánh kể lại :
‘ Có thể nói là Công lùn chết trước mũi của tôi, từ sáng đến trưa, hàng loãt C-130 của USAF từ An lộc về, đều đáp trong tình trạng khẩn cấp. Đến 3 giờ chiều thì chúng tôi được lịnh cất cánh. Tôi mang danh hiệu Bookie 03, Công là Bookie 04.

Chiếc số 2 thả xong, tôi bắt đầu xuống. Từ lâu đã đọc qua sách báo, mãi đến bây giớ tôi mới biết thế nào là đạn ‘bắn lên như đan lưới’. Trên tần số, Công la um sùm : ‘ĐM, nó bắn mày đó Tánh !..’ Tôi vừa run vừa cắn răng lo điều khiển phi cơ vào đúng toạ độ thả..’ Mày im đi, tao biết rồi, nó bắn từ khi mình bắt đầu xuống lận..’ Sau khi thả xong hàng, tôi kéo phi cơ lên gần như là triệt nâng, vừa quẹo phải để tránh vùng oanh kích của B52, có lẽ tôi là người được nghe giọng nói cuối cùng của Công : ‘ Tao vô đây Tánh, Bookie 04 in..’ Khi tôi vừa chuyển sang tần số emergency thì nghe : ‘Chết ! chết rồi ! Bookie 04 cắm đầu xuống luôn rồi..’

Các C-123 là các phi cơ vận tải tốt nhất mà KQVNCH đang có (năm 1972) đã không thể vượt nổi lưới đạn phòng không khủng khiếp tại An lộc, nên sau đó các phi vụ tiếp tế đành phải thả dù ở cao độ cao hơn và thực hiện vào ban đêm.

Ngày 27 tháng 4, dùng radar dưới đất hướng dẫn, các C-123 VNCH vảo được An lộc, thực hiện phi vụ thả dù nhưng lực lượng trú phòng chỉ nhận được 5 % số kiện hàng thả xuống. Mãi đến tháng 6/1972 các phi hành đoàn KQ VNCH mới bắt đầu được huấn luyện về phương pháp thả dù do radar hướng dẫn. Chương trình chỉ hoàn tất vào tháng 9 (sau khi An lộc đã được giải tỏa)

Kể từ 15 tháng 4, KQ HK bắt đầu trợ giúp cho công việc tiếp tế bằng cách dùng các C-130 để thả dù cho An lộc, trong phi vụ đầu tiên họ dùng 2 chiếc C-130 dự trù sẽ thả các kiện hàng ở cao độ 600 ft. Chiếc thứ nhất khi bay vào điểm thả đã bị súng phòng không CQ bắn hỏng phần đuôi lái, phi công đành thả..các kiện hàng mang theọ

Chiếc C-130 thứ nhì khi bay vào đã bị phòng không bắn gây tử thương cho một nhân viên phi hành và gây cho 2 người khác bị thương. Phi cơ đành phóng thả các kiện hàng để bay về đáp khẩn câp tại Tân sơn nhât. 26 tấn hàng do 2 phi cơ mang theo đã..không đến tay quân trú phòng ! Ngày 16 tháng 4, KQHK dùng 2 C-130 để thả tiếp 26 tấn khác nhưng do trục trặc tính toán nên số hàng này lại.. rơi vào vùng CQ kiểm soát.

Ngày 18, một C-130 khác bị hư hại nặng khi dự định thả dù vào sân banh An lộc, phi cơ lết về được vùng Bắc Pleiku nhưng phài đáp khẩn cấp xuống ruộng. Ngày 19, sau khi một C-123 cùa KQ VNCH bị bắn hạ, KQ HK hoàn toàn đảm nhận việc tiếp tế cho An lộc..

Ngày 14 tháng 4 năm 1972, các C-123 của KQVN đã thực hiện một phi vụ đặc biệt tại vùng trời phía Đông Bắc An lộc, trên cao độ ngoài tầm các loại súng phòng không của CQ : thả dù những kiện hàng..toàn nước đá, để khi chạm đất, chỉ còn những cánh dù và ..hàng tan thành nước, biến mất.. Đây là một trong những phi vụ ‘ bí mật’ nhất trong Chiến tranh Việt Nam.

Trước đó, ngày 13, Bộ TTM QL VNCH trong một cuộc họp báo công khai tại Sàigòn đã cho biết sẽ thả dù một lực lượng Biết kích Dù vào vùng chì cách An lộc 5 km để ‘bắt sống’ Chính phủ MTGP đang ở trong khu vực.. Tin tức này đã khiến Cộng quân cấp tốc cho di chuyển Trung đoàn 141 (CT 7 CS) đang bố trí ở Ấp Srok Gòn về vùng cần bảo vệ cho Cục R .

Việc di chuyển này đã khiến CQ bỏ trống một vùng gần 4 km vuông trong vùng Đông-Nam An lộc, giúp việc đổ quân tiếp viện bằng trực thăng của VNCH được an toàn : Lực lượng Nhày dù (Lữ đoàn 1) vào các ngày 14 và 15; và Biệt cách Dù (Liên đoàn 81) vào ngày 16 tháng 4, 1972 được an toàn..Lực lượng tiếp viện này lên đến gần 4000 binh sĩ thiện chiến.

Ngoài các Chinook CH-47, các UH-1 của các Phi đoàn trực thăng 221, 223.. cũng đã đóng góp rất nhiều vào các cuộc chuyển quân, chuyên chở quân- vật dụng tiếp liệu và tản thương.

Trong cuộc đổ quân của LĐ 81 BCND, các chiến sĩ đã được tập trung tại Phi trường Trảng Lớn, sau đó được các Chinook CH-47 của KQVN đưa đến Lai Khê từng toán 40 người và từ Lai Khê được các trực thăng UH-1 cũng của KQVN chuyển tiếp đến một vùng ỡ phía Đông của Đồi Gió và Đồi 169..

Các phi vụ trực thăng UH-1 bay vào An lộc được xem như bay vào ‘cõi chết’ : Tác giả Đào Vũ Anh Hùng đã viết trong bài ‘Đêm chờ Ngưng bắn, Nhớ An lộc’ :

..’ Đạn bắn như mưạ Bắn cùng mọi phíạ Bắn bằng đủ loại phòng không dữ tợn, hỏa tiễn tầm nhiệt, đại bác phòng không, súng cá nhân, 12 ly 7 phòng không chụm lại, trực xạ, đại bác nổ chụp, súng cối rót vào bãi đáp..’
..’Hợp đoàn 4 phi cơ nối đuôi nhau bay hối hả vòng qua Minh Thạnh vào bãi đáp B15 tứ hướng Tây Nam An lộc năm phút sau trận mưa bom B52 cuối cùng vừa dứt..’..’ Đoàn trực thăng bay thấp, lướt trên ngọn cây rừng theo lệnh ‘C and C’ hướng dẫn : -Hợp đoàn quẹo phải 10 độ.

Đi thẳng ! Chiếc số 3 bay nhanh một chút. OK đi thẳng..Bãi đáp 12 giờ, 3 trăm thước. Giảm air speed..coi chừng ! Coi chừng nó bắn phòng không bên trái !.. Tôi nín thỏ. Hợp đoàn đã đến gần bãi đáp. Nhưng trước cả tiếng la coi chừng hốt hoảng của chiếc phi cơ chỉ huy, tôi thấy điểm sáng dưới lòng một hố bom loang loáng lóe lên cao như chớp kính..

Ố Quẹo phải! Hợp đoàn quẹo phải !..Chiếc số 2 rớt rồi..Số 3 nhanh lên ! Lead quẹo phải 90 độ..bay ra ! Bay ra, đừng đáp.. Tôi kinh khủng..Chiếc số 2 đang bay, đột ngột cắm đđầu lao thẳng xuống triền đòi, lăn long lóc như một cục đá. Một vầng bụi đỏ mù mịt bốc lên và lửa cháy bùng’.. Chiếc phi cơ bất hạnh của Tuân. Cả một phi hành đoàn và 11 người lính bộ binh vào An lộc tiếp hơi cho đoàn người tử thủ đã rơi chết ngon lành khi vừa tới thềm địa ngục..’

‘..Phi cơ trúng đạn, đồng đội bị chết, bị thương, vẫn phải bình tĩnh bay khỏi vùng kinh khiếp, tìm trảng cỏ giữa rừng đáp khẩn cấp, bỏ tầu, may mắn lắm sẽ được phi cơ bạn nhào xuyên lưới lửa đón về..hay bỏ tầu mà chạy, vượt qua rừng qua bụi trốn tránh kẻ thù tìm vế đất sống..’ những người anh em đã roi vào tay giặc hay ra đi vĩnh viễn cùng với xác tàu vỡ vũn trên cánh rừng cao su tơi tả dày đặc hố bom. Đi không còn ai nghe tiếng nóị Xác rữa, xương khô trắng đến ngày An lộc giải tỏa, bạn bè ngậm ngùi đem về những mảng xương khô..’

Các chuyến đổ quân của các trực thăng UH-1 của KQVN, trong giai đoạn tiếp cứu An lộc gặp rất nhiều khó khăn từ khi CQ di chuyển các lực lượng phòng không của chúng chặn kín các đường bay vào An lộc..
Tác giả Hoài Duy trong ‘Chia nửa Vầng trăng : Hồi ký Trận An lộc’ ghi lại : (trong cuộc tăng viện của SĐ 9 BB VNCH)

..’ Chúng tôi, Trung đoàn 15, SĐ 9 BB từ Tân Khai đánh lên..Kế hoạch thay đổi sau hai lần máy bay đổ TĐ 3/15 vào thẳng An lộc..Đến địa điểm nhưng trực thăng không thể hạ xuống : lý do đổ xuống nhưng sẽ không kịp cất lên trước rừng pháo phòng không chào đón !..’

Đại đội tôi, quân số tham chiến 94 người sẽ xuống trước, kế tiếp ĐĐ2. Bốc lên đồng loạt đi vào mục tiêu, máy bay hạ thấp dưới ngọn cây, bay xà nhanh theo Quốc lộ 13 để tránh tầm pháọ Chúng tôi chuẩn bị nhẩy khi thấy mái ngói nhà.

Đạn phòng không nổ chập chùng ở dướị Đoàn phi cơ tự dưng bẻ quặt một đường và cất lên caọ đổi hướng. Tôi biết có điều không ổn..Máy liên lạc..Không xuống được..Các anh xuống được..nhưng trực thăng không thể cất lên kịp được..Chỉ làm mồi cho pháo..’..’Lần thứ 2, máy bay Mỹ, Phi hành đoàn Mỹ..Lập lại, cũng thế thôi ! KQ làm nhiệm vụ của họ..

Kế hoạch hành quân thay đổi.. Đơn vị xuống phía Nam An lộc 13 km và tiến quân cả ngày lẫn đêm, chạm lớn, chạm nhỏ..
Cuộc tiến quân của TĐ 3/15 bị ngưng chặn trước ngưỡng cửa An lộc, cách TĐ8 ND chừng 700m. CQ chen vào giữa chận đứng. Hai TĐ chưa bắt tay được nhau trong suốt 20 ngày..
Tác giả Hoài Duy ghi tiếp :

‘ Một ngày ở tháng 6. Hành quân bung rộng tuyến phòng thũ, ở một phía trừng bên kia đòị Một vận tải cơ của Mỹ rớt nằm trơ đó. Một trực thăng VN tìm thấy hôm sau cũng gần khu vực trên. Tôi nghĩ có lẽ cả hai chiếc rơi trong những ngày đầu cuộc chiến Riêng chiếc trực thăng, đầu máy bay hơi chúi về phía trước, hai càng trong thế vững vàng trên mặt đất.

Đầu hai người phi công gục xuống, tay buông thõng, xác khô rũ. Phụ xạ thủ và mấy người ngồi trong cũng chung số phận. Chết đã lâu, không còn mùi.. Tôi nhận diện đơn vị mấy người ngồi trong lòng máy bay qua phù hiệu của SĐBB. Trong đó có một xác người còn máy ảnh trên vai, một máy quay phim rớt trên sàn và mấy thước phim..

Chiều hôm đó, tôi được biết một trong 2 phi công là Thiếu úy, con của một Bộ trưởng Phủ TT. Lệnh từ Saigon yêu cầu Trung đoàn giúp đỡ đưa xác nạn nhân rạ Và người mang máy ảnh, trên miệng túi áo tên Bình..Sau này tôi mới biết là Nguyễn Ngọc Bình, phóng viên điện ảnh..’

(Chiếc trực thăng này bị hạ ngày 1 tháng 5 năm 72 khi bay thấp để tránh đạn phòng không nhưng đã nổ vì trúng B-40 của CQ bắn từ các xạ thũ bị cột ngưòi trên ngọn cây)

Từ ngày 11 tháng 4, CQ bắt đầu sử dụng hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 tại chiến trường An lộc.Hõa tiễn đầu tiên đạ nhắm bắn vào các phi cơ quan sát FAC của Hoa Kỳ nhưng không trúng mục tiêu..

- Các phi vụ yểm trợ cho quân trú phòng :

Trong trận An lộc, KQ VNCH đã sử dụng các phi cơ A-1 và F-5 để oanh kích, yểm trợ cho các đơn vị trú phòng chống trả các đợt tấn công của Cộng quân và hủy diệt nhiều xe tăng, thiết giáp của Cộng quân. Một số Skyraider đã bị hạ vì trúng đạn phòng không vả hỏa tiễn SA-7 của CQ.

Một báo cáo mật được nhiều Cố vấn Mỹ ghi lại trong những bản tổng kết về chiến trường An lộc :

.. Passed following info to T30 Arcraft downed in the An lộc area (TRAC log of 6 June) :
- VNAF UH-1 , 1 km South of An lộc
- XT 778888 US C-130 3 May
- XT 732912 US A-37 11 May
- XT 764875 2 US FAC 11 May
- XT 775875 AH-1 G 11 May
- XT 748868 VNAF A-1 E 13 May
- XT 810075 VNAF UH-1 13 May

Trường hợp hy sinh của Đại úy Nguyễn Cao Hùng, thuộc PĐ 518 được Tác giả Đào Vũ Anh Hùng ghi lại như sau :

..’ Hôm 20 tháng 5, tôi bay quần quần phía Đông Tân Khai chờ 4 phi tuần khu trục săn hạ hai chiếc xe tăng VC trốn dưới gầm cầu xe lửa và khóa họng nhựng ổ phòng không, dọn đường cho tôi dẫn hợp đoàn vào đáp.. Tôi bay trên 5000 bộ, theo dõi từng chiếc Skyraider nhanh nhẹn luân phiên đâm bổ xuống mục tiêụ Bỗng một chiếc AD6 vừa thả xong 2 trái napalm, vút ngược lên cao..Tôi thấy một tia khói cuộn lên từ bụi cây ên bờ con suối cạn. Chiếc phi cơ bỗng phát nổ..’

Quan sát viên phi hành Lê văn Sùng, trong bài ‘Một thời ốp xẹc’ đã ghi lại trường hợp hy sinh của Phi công Nguyễn Cao Hùng như sau :

..Thuở ấy, Mặt trận Bình Long càng ngày càng khốc liệt.. Phi đoàn 116 của chúng tôi ở Cần Thơ cũng được tăng cường cho PĐ 112 Biên Hòa ba phi hành đoàn để hằng ngày thi hành một số phi vụ do PĐ 112 sắp xếp, hầu hết là được giao cho những phi vụ bay cho mặt trận Bình Long..’

Phi vụ của Quan sát viên Sùng, Danh hiệu Sơn ca 23, do phi công Thành bay hoạt động tại vùng phía Nam An lộc. Sau khi đã hướng dẫn 4 phi tuần khu trục và bắn hết 6 rocket khói đánh dấu mục tiêu, trên đường bay trở về Cần thơ, Khi bay qua Tân Khai đã tình cờ phát giác được 2 chiến xa CQ đang chui nấp dưới gầm cầu xe lửa, anh đã gọi Trung Tâm Hành quân Không trợ 3 và xin phi tuần khu trực.

Trong lúc đó trong vùng có sẵn một phi tuần 2 phi cơ A-1 tuy đang được điều động, nhưng FAC Mỹ gần hết xăng, không chỉ định mục tiêu đánh được và đang tìm mục tiêu giãi tỏa bom đạn...Hai A-1 này do các phi công Nguyễn Cao Hùng (bay số 2) và Nguyễn thế Quy bay số 1.

..’ Số 2 vừa kéo lên break trái, một làn khói trắng dài bay phụt lên, đầu làn khói trắng ấy là một chấm đen, đang quẹo vòng lại đuổi theo phi cơ số 2. Tôi thét lớn SA-7! Số 2 nhảy dù ! số 2 nhảy dù mau..: Không kịp rồi, làn khói đã tới phi cơ, tôi nghe đùng một tiếng thất lớn giữa không trung. Phi cơ anh đã bốc cháy, nhưng còn đang bay lên, tôi thấy một vật đen bay ra khỏi phi cơ, may quá ! Anh đã nhẩy dù ra được rồi..’
Nhưng dù không kịp mở, và xác Phi công Hùng đã được đơn vị BB hoạt động trong vùng tìm thấỵ

Phi công Qui, sau này, cho biết thêm : ‘Hôm đó là ngày 20 tháng 5, 1972. Phi tuần Phenix 51 do Qui bay số 1 và Thống (66A) bay số 2 đang túc trực chờ baỵ Hùng tuy đang nghỉ phép nhưng vào chơi.. và muốn bay cho đỡ buốn. Qui định thêm A-1 để Hùng bay sô 3 nhưng sau đó Hùng đã bay thay Thống..’

Một phi vụ rất đặc biệt đã được một số tác giả như Tướng Mạch văn Trường, Tr/tá nguyễn ngọc Ánh.. viết lại trong tập ‘ Chiến thắng An lộc 1972’ phổ biến trên website là Phi vụ phá Hầm và Chốt Xa cam. Chốt này cách An lộc khoảng 6 km về phía Nam do Trung đoàn 165 Công trường 7 CSBV chiếm giữ, cầm chân các Chiến đoàn 15 và Trung đoàn 33 BB VNCH, cắt đứt việc giải toả An lộc.

Tuy toán mật mã của VNCH đã bắt được tần số liên lạc và xác định được vị vị trí của 2 đơn vị CSBV và Bộ Chỉ huy của CT7 vả yêu cầu HK dùng B-52 để đánh vào mục tiêu, vào những ngày 20 và 22 tháng 3 nhưng bị từ chối (?).. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 VNCH đã yêu cầu KQVN dùng các CBU 55 để tấn công vào mục tiêụ

Cuộc họp để quyết định dùng CBU có sự tham dự của Tướng Minh, Tư lệnh KQ, Tuớng Tính TL SĐ 3 KQ, Đại Tá Tường Tư lệnh phó SĐ3.. Tướng Huỳnh bá Tính, sau khi bàn thảo với ĐTá Tường đã đề nghị dùng Skyraider của SĐ 3 KQ thả một số CBU trừ bị, còn lại trong kho võ khí của KQVN sau 6 giờ chiều (là giờ các phi cơ HK bay trở về Hạm đội ?).. và phi vụ này sẽ được KQVN ‘âm thầm’ hành động theo kế hoạch riêng, không thông báo cho Hoa Kỳ.

Các tác giả ghi lại :
..’ Tại phi trường Biên Hòa, hai phi tuần khu trục A-37 yểm trợ cho 4 khu trục cơ AĐ6 mang 4 quả bom CBU được lệnh cất cánh vào lúc 18 giờ 15 chiều ngày 07 tháng 06 năm 1972 trực chỉ Xa cam. 18 giờ 30 ngày 07 tháng 06 năm 1972, hai phi tuần A-37 bay trước oanh kích dọn đường cho 4 Skyraider AD.6 tiếp nối theo sau thả liền 4 trái CBU ngay trên địa điểm Hầm chốt Xa Cam gây ra 4 tiếng nổ lớn, san bằng, tiêu diệt một vùng gần 1 cây số đường bán kính xung quanh..’

(Ngay sau đợt thả CBU, TĐ 6 Dù đã khởi phát cuộc tấn công nhổ chốt..)

- Các hoạt động khác của KQ VNCH :
Một số đơn vị khác của KQ VNCH cũng đã đóng góp vào Chiến thắng An lộc một cách ‘lặng lẽ’ nhưng không kém phần quan trọng :

- Phi đoàn 716 với các phi tuần EC-47 Trắc giác vô tuyến (Airborne Radio Direction Finding=ARDF) giúp phát giác các cuộc chuyển quân của CSBV và xác định những vị trí của các đơn vị CQ.

- Các đơn vị bốc rỡ và chất hàng lên các Phi cơ vận tải (Riggers). Các chuyên viên này (Việt Nam, Mỹ và Đài loan) đã phải làm việc liên tục những ‘ca’ kéo dài trên 20 giờ, tại một khu vực trống trải ở cạnh phía Đông của phi đạo Tân Sơn Nhất (Trong thời gian cao điểm thả dù tiếp tế cho An lộc, KQHK đã phải đưa đến Saigon 76 chuyên viên gắn dù thuộc ĐĐ 549th Quartermaster, ở Okinawa và sau đó còn tăng cường thêm một số chuyên viên từ Đài loan)

Chiến thắng An lộc đã phải trả bằng ‘máu và nước mắt’ của những đơn vị Bộ binh, Nhảy Dù, Biệt cách Dù, Thiết giáp..Địa phương quân Quân lực VNCH , quả cảm, quyết sống chết để tử thủ, giữ vững được An lộc, nhưng chiến thắng này đã cần phải có sự đóng góp tối quan trọng của Không quân Hoa Kỳ và Việt Nam qua những phi vụ yểm trợ chiến trường như B-52, Gunships..các khu trục, trực thăng tiếp tế và tản thương, các phi cơ vận tải..

Trần Lý (09/2009)